Các phương pháp điều trị ung thư chính thống
Phương pháp điều trị ung thư chính thống (phẫu thuật, hóa trị và xạ trị) góp phần hủy hoại hệ miễn dịch. Chúng ta thường ít để ý đến phục hồi nó hoặc thay đổi lối sống. Bệnh nhân ung thư điều trị theo chính thống có vẻ khá lên, nhưng ung thư tái phát sau một vài tháng hay vài năm ở dạng mạnh mẽ hơn.
Phẫu thuật
Tế bào ung thư liên tục được tạo ra trong cơ thể, hệ miễn dịch có khả năng tìm kiếm và tiêu diệt những tế bào này. Tuy nhiên, các khối u bắt đầu phát sinh khi có nhiều tế bào ung thư hơn đang được tạo ra, mà hệ miễn dịch bị suy giảm phải làm việc quá sức để có thể tiêu diệt được tế bào ung thư. Cắt bỏ khối u thường không giải quyết triệt để vấn đề. Khối u chỉ là sự tăng trưởng không kiểm soát được của các tế bào, và chỉ là triệu chứng của ung thư, không phải là nguyên nhân.
Nếu bị một trong những loại ung thư phổ biến nhất – vú, tiền liệt tuyến, đường ruột, phổi…bạn thường thấy một khối u “cứng”. Đây là một đặc trưng của khoảng 90% ung thư được báo cáo hàng năm. Bác sĩ ung thư sẽ đề nghị lấy nó đi. Có khi phải mổ vài lần.
Thường phẫu thuật vứt bỏ khối u sinh ra di căn. Bạn bị yếu hơn khi phẫu thuật cho dù bạn phục hồi hoàn toàn sau phẫu thuật.
U ung thư cỡ cục tẩy đầu bút chì chứa một tỷ tế bào ung thư. Nếu chỉ một số ít láu lỉnh trong số đó thoát khỏi dao mổ của bác sĩ, như chúng thường vậy, thì ung thư có nhiều khả năng tái phát và phát tán (gieo rắc mầm), trừ phi bạn thận trọng gây dựng lại hệ miễn dịch.
Hóa trị
Hóa trị sử dụng rất nhiều hóa chất độc làm hư hại tế bào khi chúng phân chia. Hãy nhớ con số 75 nghìn tỷ. Đó là số lượng tế bào trung bình trong cơ thể mỗi người. Mỗi ngày có khoảng 300 tỷ tự thay đổi bằng phân đôi. Các tế bào ung thư được phân chia tạo thành các tế bào ung thư ác tính mới. Nhiều tỷ tế bào khỏe mạnh cũng phân chia mỗi ngày và tự thay thế.
Hóa chất không thể phân biệt tế bào ung thư và tế bào khỏe mạnh. Hóa trị dội bom tất cả các tế bào với cùng loại na-pan. Có gì ngạc nhiên khi hầu hết bệnh nhân điều trị hóa trị bị rụng tóc? Tế bào phân chia nhanh nhất trong cơ thể là ở trong tóc. Đó không phải tế bào ung thư, đó là tế bào khỏe mạnh tự thay thế, nhưng hóa trị tác động lên tế bào phát triển nhanh. Có rất nhiều tế bào phát triển nhanh trong ruột, các cơ quan lớn khác và trong xương tủy của bạn. Chúng bị thổi sạch! Đó là lý do tại sao bệnh nhân chạy hóa trị cảm thấy như địa ngục, vô cùng mệt mỏi.
Một số u ác tính có phản ứng tốt với hóa trị. Tháng 10 năm 1971 Bs. Gordon Zubrob lãnh đạo Viện Ung thư Quốc gia Mỹ đưa ra một danh mục và quan trọng là danh mục đó không thay đổi kể từ 1971. Đó là: Ung thư bạch cầu; Ung thư dạ con; Máu trắng; U lymphô Hodgkin; Sacom lymphô; Ung thư phôi tinh hoàn; U bướu Wilm; U bướu Ewing; U cơ vân; U nguyên bào võng mạc.
Có thể ai đó bị ung thư và được “ân xá” sau hóa trị. Họ là những người may mắn. Nhưng, hãy cân nhắc đến giải pháp êm dịu hơn trước khi bạn chấp nhận “một liều nào đó” hóa trị.
Cần nhớ, thời gian thường không phải là nguy kịch trong chữa trị ung thư. Phải mất vài năm phát triển mới đến thời điểm ung thư được phát hiện. Bạn chắc chắn có ít nhất vài tháng, để chữa trị nó.
Xạ trị
Phương pháp chính thống thứ ba trong điều trị ung thư là xạ trị. Xạ trị có hiệu quả giảm kích thước khối u đối với một số u ung thư. Nhưng phần lớn tác dụng phụ rất rõ rệt và tác hại. Xạ trị cũng không phân biệt được tế bào ung thư và tế bào bình thường. Dù kỹ thuật hoàn thiện, xạ trị là tương đương với việc đốt cháy ung thư thành tro bụi và toàn bộ cơ thể đều bị liên lụy.
Phương pháp điều trị ung thư chính thống (phẫu thuật, hóa trị và xạ trị) góp phần hủy hoại hệ miễn dịch. Chúng ta thường ít để ý đến phục hồi nó hoặc thay đổi lối sống. Bệnh nhân ung thư điều trị theo chính thống có vẻ khá lên, nhưng ung thư tái phát sau một vài tháng hay vài năm ở dạng mạnh mẽ hơn. Ngoài ra, ung thư tái phát thường kháng lại các tác nhân hóa trị liệu đã sử dụng trước đó. Các tế bào ung thư yếu đã bị tiêu diệt bởi trị liệu, còn những tế bào ung thư khỏe hơn vẫn tồn tại và tự sinh sôi nảy nở. Cuối cùng, tất cả đều mạnh và kháng lại điều trị.
Những phương pháp khác trong điều trị ung thư
Liệu pháp tác nhân tăng cường Insulin (IPT)
Liệu pháp tác nhân tăng cường Insulin truyền một lượng nhỏ insulin cho bệnh nhân tạo nên tình trạng giảm đường huyết. Khi bệnh nhân bắt đầu có các triệu chứng như cảm thấy hoa mặt và yếu (triệu chứng giảm đường huyết) [xảy ra trong khoảng 30 phút] thì cho truyền tĩnh mạch những liều hóa trị thấp.
Insulin hoạt động như một tác nhân tăng cường lừa các tế bào ung thư làm chúng tin rằng sẽ được cho ăn đường (thứ mà chúng ưa thích). Các thụ thể của chúng mở ra. Tại thời điểm này chỉ cần liều hóa trị rất nhỏ để tiêu diệt các tế bào ung thư. Vì insulin tác động như một tác nhân tăng cường và tăng hiệu quả hóa trị, nên lượng hóa trị cần thiết ít hơn nhiều so với hóa trị truyền thống (chỉ bằng 1/10). Phương pháp này hiệu quả hơn và ít tác dụng phụ hơn so với hóa trị liều cao.
DMSO / MSM / CESIUM CHLORIDE (DMCC)
Dimethyl sulfoxide (DMSO) là sản phẩm không độc hại, 100% tự nhiên. Methyl sulfonyl methane (MSM) là DMSO gắn thêm một nguyên tử ôxy vào nguyên tử lưu huỳnh và tạo thành một phân tử có tổng số hai nguyên tử ôxy đính kèm.
DMSO được giới thiệu vào năm 1960 như một tác nhân chữa bệnh bởi một nhóm nghiên cứu do bác sĩ Stanley W. Jacob lãnh đạo tại Trường Y khoa của Đại học Oregon. Trong nghiên cứu đó DMSO được trộn với haematoxylon (một loại phẩm nhuộm màu tía) và tiêm cho các bệnh nhân ung thư.
Trong cơ thể, DMSO hình thành trạng thái cân bằng với MSM (dạng ôxy hóa của DMSO), và sự kết hợp đó trở thành hệ thống vận chuyển ôxy, tăng cường chuyển hóa hiếu khí. DMSO làm cho nhiều loại ung thư phân hóa, theo đó trở lại thành các tế bào bình thường qua việc tái lập chuyển hóa hiếu khí. Khi quá trình chuyển hóa hiếu khí được tái lập, các tế bào ung thư sẽ bị loại bỏ thông qua quá trình tự chết tự nhiên ở tế bào.
Một trong những đặc tính quan trọng nhất của DMSO và MSM là cả hai đều hoạt động hiệu quả khi kết hợp các liệu pháp điều trị khác, chẳng hạn như cesium chloride là khoáng chất kiềm tính nhất. DMSO gắn với cesium chloride (DMCC) để xâm nhập vào bên trong các tế bào ung thư.
Phác đồ DMCC vận chuyển đủ ôxy cho các tế bào, điều kiện thiếu ôxy được đảo ngược và các tế bào tái lập chuyển hóa hiếu khí. DMCC tiêu diệt được các tế bào ung thư (trực tiếp hay gián tiếp), chấm dứt ung thư di căn (lan rộng), co lại các khối u trong vài tuần và giảm đau đớn trong vòng một vài ngày, tùy thuộc vào cái gì gây ra đau đớn. Tuy nhiên, xin hiểu rằng mọi mức độ sưng, viêm và/hoặc tắc nghẽn có thể rất nguy hiểm; do đó, phác đồ DMCC không được khuyến cáo cho tất cả mọi người.
Bài viết khác